SỬ DỤNG THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN LẦN ĐẦU TIÊN LIÊN QUAN VỚI VIỆC TĂNG CÂN NHANH

450

SỬ DỤNG THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN LẦN ĐẦU TIÊN LIÊN QUAN VỚI VIỆC TĂNG CÂN NHANH, RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA Ở TRẺ EM.

Ngày 29 / 10 / 2009 – Lần đầu tiên một nghiên cứu mới cho thấy sử dụng thuốc chống loạn thần ( CLT)  thế hệ thứ 2 ở trẻ em và thanh thiếu niên có liên quan với sự tăng cân nhanh và đáng kể củng như nhiều thay đổi có hại về chuyển hóa.

Một nghiên cứu duy nhất về 272 bệnh nhân nhi sử dụng thuốc CLT lần đầu cho thấy sau trung bình khoảng 10,8 tuần điều trị, đối tượng tăng trung bình 18,7 pound với olanzapine, 13,4 pound với quetiapine, 11,7 pound với risperidone, và 9,7 pound với aripiprazole. Tổng số 10% đến 36% đối tượng chuyển sang tình trạng quá cân hay béo phì trong 11 tuần. So sánh với nhóm chứng 15 bệnh nhân từ chối hoặc không tuân thủ điều trị với thuốc CLT thì trung bình tăng 0,4 pound trong cùng thời gian đó.

Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy những thay đổi có hại có ý nghĩa về thống kê của olanzapine chỉ với đường huyết lúc đói, insulin, và đề kháng insulin. Ngoài ra, quetiapine làm xấu đi đáng kể chỉ số tổng cholesterol, triglycerides, non HDL, cholesterol, và tỉ số triglycerides trên HDL cholesterol.

Với risperidone chỉ có gia tăng đáng kể triglycerides. Tuy nhiên, tối thiểu trong 3 tháng đầu điều trị, không có thay đổi đáng kể so với ban đầu đối với aripiprazole hoặc trong nhóm không điều trị.

Trưởng nhóm nghiên cứu Bs Christoph U. Correll, BV Zucker Hillside, hệ thống sức khỏe Do Thái bắc đảo Shorelong, Glen Oaks, và viện Feinstein nghiên cứu y khoa, Manhasset, New York phát biểu với Medscape Psychiatry: “ Nghiên cứu này giúp thuyết phục nghi ngờ về việc sử dụng CLT ở trẻ em và thanh thiếu niên làm gia tăng đáng kể nguy cơ tăng cân sớm, không phù hợp theo lứa tuổi cũng như những bất thường về chuyển hóa.”

Ts Correll cho biết thêm “ những bất thường này dường như không liên quan nhiều với việc mới khởi phát bệnh hay việc nhập viện nhưng có lẽ thật sự chỉ do việc sử dụng thuốc.” Nghiên cứu được đăng ngay 28/10 của Journal of the American Medical Association.

Sự chuyển đổi an toàn hơn sang thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất?

Việc sử dụng thuốc CLT không điển hình ở trẻ em và thanh thiếu niên có các rối loạn loạn thần, rối loạn lưỡng cực, và các rối loạn tâm thần không loạn thần đã và đang phát triển rộng rãi bởi vì ít các tác dụng có hại cấp như akathisia và rối loạn vận động muộn mà thường liên quan điển hình với thuốc CLT thế hệ thứ nhất.

Ts Correll cho biết “ Thuốc CLT thế hệ thứ hai được hướng tới khi chúng được giới thiệu vì những tác dụng phụ ở vùng mặt, tác dụng phụ giống parkinson, tác dụng phụ cấp thì ít hơn, và người ta cảm thấy rằng không có các tác dụng phụ này ở thuốc thế hệ mới sẽ giúp giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến tinh thần như sự bất an ở bệnh nhân và sự không tuân thủ điều trị liên quan với thuốc thế hệ thứ nhất.”

Tuy nhiên, theo dữ liệu đã được đăng ở người  trưởng thành về liên quan giữa thuốc CLT không điển hình với nhiều tác dụng mạn tính hơn bao gồm tăng cân và bất thường chuyển hóa, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu này.

Tiến sĩ Correll nói “ vào thời điểm này có ít hiểu biết về hiệu qua của CLT không điển hình ở trẻ em và thanh thiếu niên, và vì tôi làm việc trong lĩnh vực can thiệp sớm và ngăn ngừa loạn thần ở thanh thiếu niên và người mới trưởng thành, chúng tôi cảm thấy nghiên cứu này cho phép xác định cả điều trị lâm sàng và những dự báo sinh học của biến cố xấu.”

Một cơ hội đặc biệt

Nghiên cứu những chỉ định điều trị thuốc CLT thế hệ hai, hiệu quả và sự dung nạp ở người trẻ (SAIETY) được thực hiện giữa tháng 12/2001 và 9/2007 tại chăm sóc sức khỏe ban đầu, nội trú và ngoại trú viện trường tại Queens, New York.

Những người tham gia gồm 272 bệnh nhân mới sử dụng thuốc CLT lần đầu ở độ tuổi từ 4 – 19 tuổi . Tổng số 130 người (47,8% ) bị rối loạn khí sắc, 82 người (30,1 %) bị tâm thần phân liệt, và 60 người (22,1%) có những rối loạn tan rã, hay gây hấn.

Những lượng giá kết quả ban đầu bao gồm thay đổi trong cân nặng và thay đổi lipid hoặc thông số về chuyển hóa sau 12 tuần điều trị với 1 trong 4 thuốc CLT phổ biến gồm olanzapine, quetiapine, aripiprazole, hay risperidone.

Tiến sĩ Correll cho biết “ Nghiên cứu này cho chúng ta cơ hội đặc biệt không chỉ để theo dõi những trẻ em và thanh thiếu niên và gia đình của chúng vào thời điểm có những rối loạn lớn, mà còn giúp lượng giá sự tiếp xúc đầu tiên của chúng với những thuốc CLT và đánh giá được hiệu quả không bị gây nhiễu do điều trị ban đầu. Ngược lại, ở những người trưởng thành, bạn chỉ có thể đánh giá một phần nhỏ của vấn đề, khi bạn chỉ có thể xem xét 3 vừa qua trong 20 năm bệnh và quá trình điều trị”.

Tăng cân không phải là cơ chế duy nhất có thể

Sự tăng cân rõ rệt và nhanh chóng trong một thời gian điều trị tương đối ngắn gây ra sự ngạc nhiên. Phát hiện ngạc nhiên thứ hai là mặc dù tăng cân gặp trong cả 4 loại thuốc nhưng chuyển hóa của mỗi loại rối loạn khác nhau. “Chúng ta luôn nghĩ rằng hầu hết tác dụng ở chuyển hóa glucose và lipid gián tiếp gây ra từ hiệu quả tăng cân. Nói một cách khác, nếu như bạn tăng cân, dù có dùng hay không dùng thuốc, nó ảnh hưởng đến cả chuyển hóa glucose và lipid. Điều này đúng ở một mức độ nào đó, nhưng cũng có những hiệu quả tăng cân độc lập mà một số loại thuốc có nhiều hơn những loại khác.

Ví dụ như olanzapine ảnh hưởng xấu ở cả chuyển hóa glucose và lipid, trong khi quetiapine và risperidone ảnh hưởng lành tính hơn trên chúng. Đáng ngạc nhiên là thậm chí aripiprazole có liên quan đến tăng cân một cách đáng kể, nhưng nó không liên quan gì đến bất thường glucose và lipid tương tự như nhóm chứng.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy tuổi tác không ảnh hưởng đến nguy cơ tăng cân hay bất thường chuyển hóa. Khi họ xem xét tác động theo liều, họ nhận thấy olanzapine không gây tăng cân theo liều nhưng ảnh hưởng chuyển hóa theo liều. Tuy nhiên, liều cao risperidone gia tăng cân nặng và tăng triglycerides, điều này cho thấy thuốc này có thể xúc tiến tăng cân, mà từ đó ảnh hưởng đến chuyển hóa.

Cần kiểm tra thường xuyên hơn

Ts  Correll nói những phát hiện này chỉ ra sự cần thiết kiểm tra chuyển hóa tim mạch thường xuyên ở cộng đồng các bệnh nhân này. Sau cùng, vì những hậu quả xấu trên sức khỏe thể chất và những bất lợi trong kiểm tra chuyển hóa ở bệnh tâm thần nặng, lợi ích của thuốc CLT thế hệ thứ 2 phải được cân nhắc so với nguy cơ chuyển hóa tim mạch qua việc xem xét cẩn thận những chỉ định xử dụng, xem xét các lựa chọn ít nguy cơ hơn – bao gồm những biện pháp không dùng thuốc, và chủ động kiểm tra và giải quyết tác dụng bất lợi.

Những thuốc này không phải lành tính và có các tác dụng phụ ảnh hưởng đến biến chứng lâu dài có thể liên quan đến bệnh nội tiết và tim mạch, vì thế quyết định xử dụng nhóm thuốc này là bước quan trọng, và chúng nên được điều trị như trên. Chúng ta thật sự cần xem xét cẩn thận giữa nguy cơ và lợi ích – nguy cơ của bệnh và nguy cơ của thuốc.

Xử dụng rộng rãi cần nên xem xét lại

Cùng với bai báo này, Bs Christopher K. Valey, va Jon McClellan từ BV nhi Seattle, Washington, cũng cho biết cần chú ý kỹ khi kê toa những thuốc này. Họ cho những dữ liệu của Ts Correl và nhóm ông ta là “ đúng thời điểm và nghiêm túc”. Họ chỉ ra rằng những nghiên cứu hỗ trợ việc xử dụng thuốc CLT thế hệ II với tự kỷ, TTPL, rối loạn lưỡng cực, kích động, và tics. Tuy nhiên, họ cũng ghi chú là những thử nghiệm thuốc này là trong thời gian ngắn và có những giới hạn về phương pháp luận.

Mặc dù những thuốc này có thể là cứu cánh của người trẻ tuổi với những bệnh lý tâm thần nặng, nhưng nó cũng mang lại nguy cơ tăng cân và nguy cơ lâu dài về tim mạch và chuyển hóa, xử dụng rộng rãi trong dân số chung cần xem xét lại.

Các tác giả cũng chú ý rằng dù có những hướng dẫn chi phối việc sử dụng thuốc, nhưng không chắc là các nhà lâm sàng có tuân thủ đúng chỉ dẫn không hay sự tuân thủ đúng có cải thiện được hậu quả không.

Cuối cùng, họ ghi chú là nhiều nghiên cứu về thuốc CLT thế hệ II được tài trợ bởi các công ty. Do đó, họ kêu gọi các nghiên cứu lớn hơn, được tài trợ độc lập  sẽ cho thấy lợi ích và an toàn trong thời gian dài của các thuốc này ở trẻ em và thanh thiếu niên.

Cho đến hiện tại những dữ liệu này được chấp nhận, xem xét can thiệp trị liệu ít nguy cơ và hết sức chú ý đến khía cạnh chuyển hóa ở trẻ em và thanh thiếu niên mà sử dụng thuốc CLT thế hệ II là cần thiết.

Lược dịch: Bs. Nguyễn Thế Hùng, Bs Khoa A, BV TT Tp HCM

Theo Caroline Cassels. First-Time Antipsychotic Use Linked to Rapid Weight Gain, Adverse Metabolic Changes in Kids