NGUY CƠ TỰ TỬ TỪ CÁC THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH CÒN CHƯA RỎ

261

Mới đây có 3 nghiên cứu đưa ra những kết luận mâu thuẫn về nguy cơ hành vi tự tử liên quan tới những thuốc chống trầm cảm như Paxil, Prozac và Zoloft. Ba loại thuốc trên và việc chỉ định các SSRI khác đã được nhìn nhận cẩn thận hơn năm trước, được tách ra trong các báo cáo, nổi bật là vấn đề tự sát hoặc mưu toan tự sát trong thời gian dùng thuốc ở bệnh nhân vị thành niên . Tuy nhiên ba nghiên cứu mới không có khả năng làm rõ nhận định lẫn lộn trên.

Theo giáo sư dịch tễ học tâm thần John Geddes ở đại học Oxford Anh Quốc và đồng tác giả một báo cáo đăng trên British Medical Jounal cùng cho biết ba nghiên cứu trên “đưa ra một dấu hiệu có thể có về sự gia tăng hành vi tự sát”. Tác giả cho thấy đây “chỉ là một nguy cơ rất nhỏ” khi dùng thuốc và “sự lưỡng lự thật sự ít ỏi giữa lợi ích điều trị và nguy cơ tự tử ở bệnh nhân tuổi vị thành niên”. Dù vậy, các SSRI cũng không thể được dùng một cách tự tiện, đúng hơn sự lưỡng lự ( trong chỉ định ) cần được cân nhắc trong từng trường hợp. Khả năng thuốc chống trầm cảm, nhất là các SSRI làm tăng nguy cơ tự tử ở người trẻ tuổi đã trở thành vấn đề tranh luận sôi nổi. Năm ngoái, giới chức trách nhiệm Anh quốc tuyên bố ngoài Prozac không nên dùng thuốc chống trầm cảm nào khác cho trẻ em và trẻ vị thành niên. Tháng 10, cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc Hoa Kỳ khuyến cáo các công ty in hộp đen nhãn hiệu cảnh báo thuốc, cảnh báo bác sĩ và người dùng thuốc thận trọng đối với nguy cơ định tự tử tiềm tàng hoạc hành vi tự tử ở những bệnh nhân trẻ em.

Ba nghiên cứu trên tiếp nhận nguy cơ tự tử từ các góc độ khác nhau. Nghiên cứu lớn nhất tiến hành ở Cơ quan điều chỉnh thuốc và sản phẩm chăm sóc sức khỏe London cho biết nước Anh có hơn 146000 người dùng SSRI hoặc TCAs. Nghiên cứu này đã tìm ra “không chắc chắn rằng nguy cơ tự tử hay ý muốn tự hại không gây chết ở người lớn dùng SSRI lớn hơn những người được kê toa TCAs”, nhưng các tác giả lưu ý “có một vài chắc chắn nhỏ” hành vi tự hại ở người 18 tuổi hay trẻ hơn dùng SSRI.

Nghiên cứu thứ 2 của các tác giả thuộc Đại học Bristol Anh quốc trên hơn 40000 người tham gia trong 477 thử nghiệm có kiểm soát. “Chúng tôi không chắc rằng các SSRI làm tăng nguy cơ tự tử nhưng sự đề phòng cẩn thận hay tác động nguy hiểm cũng không thể bị loại trừ”. Các tác giả này cũng nhận thấy sự chắc chắn “yếu, ít, không rõ” của sự gia tăng nguy cơ tự làm tổn hại bản thân.
Các tác giả kết luận “một thử nghiệm lớn với thời gian theo dõi kéo dài hơn cần được đặt ra nhằm đánh giá mức nguy cơ và lợi ích dùng SSRI.

Nghiên cứu thứ 3 thu nhận các số liệu trên 88000 người tham gia 702 thử nghiệm lâm sàng. Kết quả tìm ra “sự gia tăng có ý nghĩa tỷ lệ mưu toan tự tử, đúng 2 lần hơn ở bệnh nhân dùng SSRI so với bệnh nhân dùng giả dược”. Tác giả Dean Fergusson, nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu sức khỏe Ottawa ở Ontario nói “chúng tôi có sự chắc chắn là các biến chứng lâm sàng hiếm gặp nhưng có nguy cơ tự tử nghiêm trọng liên quan tới các SSRI” và ‘thông tin này phải được tống đạt tới các bác sĩ và các bệnh nhân”. Tác giả Fergusson nói thêm “nhưng nguy cơ này phải được đặt ra trong tương lai”. “Các lợi ích cũng tốt như những nguy cơ liên quan tới việc chỉ định điều trị các thuốc này”.

Bác sĩ David Fassoer, ủy viên Hội tâm thần Hoa Kỳ có đánh giá tích cực hơn: “Những kết quả đó gợi ý bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm sẽ thích hơn khi nói về ý nghĩ tự tử hoặc nói với ai về mưu toan tự tử của mình”. Tác giả Fassoer nói có một khó khăn trong bản giải trình siêu phân tích (nhận định lại số liệu từ nhiều công trình nghiên cứu) như các số liệu hiện tại đã được báo cáo là “có khó khăn trong việc loại bỏ các nhận định ra khỏi phương pháp khoa học chi tiết trong nghiên cứu cơ bản”. Tuy vậy, việc tìm kiếm ý nghĩ và mưu toan tự tử đã được báo cáo với tỷ lệ cao ở người sử dụng các SSRI là một thông tin có giá trị. Tác giả cho biết “là bác sĩ lâm sàng, tôi quan tâm nhiều nhất tới những bệnh nhân có ý định tự tử và không nói với họ về vấn đề này”. “Dùng thuốc chống trầm cảm có khả năng làm tăng sự thích nói và do vậy bệnh nhân sẽ nói với ai đó về ý nghĩ và mưu toan tự tử của mình, hy vọng nhận thêm sự giúp đỡ và nương tựa”.

Fergusson nói thêm một khó khăn khác trong việc đánh giá các thông tin là phần lớn thời gian các thử nghiệm lâm sàng tương đối ngắn, thường trung bình chỉ 10 tuần lễ. “Vấn đề tôi đưa ra là chúng ta cần có một công trình nghiên cứu lớn, thử nghiệm trong thời gian dài để đánh giá cả các lợi ích điều trị lẫn nguy cơ tự tử. Đòi hỏi này phải được đặt lên hàng đầu lịch trình nghiên cứu”.

Theo Ed Edelson. Healthday Reporter. February 17, 2005.

BS Phạm Văn Trụ, BS CK1, Phó giám đốc BVTT